Khoatochucxaydungchinhquyen

Tin mới nhận

hoat-dong-khoa-hoc

TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM

TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM

Nguyễn Tất Đạt 

           Tóm tắt: Bài này nêu lên thực trạng nền giáo dục hiện thời của Việt Nam cả những đánh giá thành công và nhưng dư luận trái chiều về thành tựu của nền giáo dục Việt Nam. Tác giả cho rằng để đổi mới thành công hơn nữa trong giáo dục cần xem xét trên cơ sở xây dựng triết lý giáo dục cho Việt Nam. Sau khi khảo cứu một số quan điểm giáo dục, triết lý giáo dục của các học giả cũng như của một số quốc gia, tác giả trình bày quan điểm riêng về triết lý giáo dục cho Việt Nam để bạn đọc tham khảo.

            Từ khóa: Giáo dục và đào tạo, triết lý giáo dục 

            Bảy mươi năm qua kể từ Cách mạng tháng Tám, Việt Nam đã đi qua chặng đường lịch sử hào hùng nhưng cũng có những khúc bi tráng. Sau năm 1986 cả nước đi vào đổi mới toàn diện: đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong đó có tiến hành cải cách giáo dục. Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục đã có những thành tựu đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo: “1. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động. 2. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn, bình đẳng giới cơ bản được bảo đảm. 3. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…”. Dư luận xã hội có nhiều ý kiến đồng tình với nhận định của bộ Giáo dục và đào tạo, tuy nhiên cũng còn nhiều ý kiến trái chiều, chưa tin tưởng vào quá trình cải cách giáo dục. Ví dụ: “Theo GS-TSKH Trần Ngọc Thêm - Chủ tịch Hội đồng KH - ĐT Đại học Quốc gia TPHCM, Uỷ viên Hội đồng Lý luận T.Ư, hiện giáo dục Việt Nam đang mắc 4 trọng bệnh: Bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh suy dinh dưỡng và bệnh gian dối”. Còn theo tác giả Tiến Dũng thì: “Thực tế, gần 30 năm chúng ta chưa thực sự quản lý được chất lượng giáo dục đại học vì chưa có chuẩn đầu ra của các trường; chưa giữ được chuẩn của giáo viên, chương trình, cơ sở vật chất...; chưa có cơ quan chuyên trách quản lý chất lượng; hằng năm chưa có đánh giá thực tế và có báo cáo về chất lượng đào tạo của các trường và cả hệ thống giáo dục đại học".


         Theo chúng tôi để thay đổi căn bản nền quốc học nước nhà phải tính đến nền tảng gốc rễ của nó, đó là triết lý giáo dục. GS. Phạm Minh Hạc đưa ra khái niệm về triết lý giáo dục: “Triết lý giáo dục là thực tế giáo dục đã được con người, công đồng, xã hội trải nghiệm – cái đã trải qua và nghiệm thấy, tức là đã cảm nhận, biết đến hiểu ra, ý thức được – được đúc kết lại thành một giá trị được biểu đạt trong câu ngắn gọn, ca dao tục ngữ, cụm từ… nhằm truyền đạt, tiếp thu và thể hiện trong cuộc sống, mang lại một giá trị nhất định cho con người, cộng đồng, xã hội, duy trì và làm nảy nở cái đúng, tốt, đẹp, ngăn ngừa, sửa chữa, loại trừ cái sai, cái ác, cái xấu”. Tiếp thu ý kiến đó chúng tôi cho rằng triết lý giáo dục phải là những định thức, tiêu chí, mục tiêu chủ đạo, nguyên tắc nền tảng xây dựng nền quốc học, là con đường, phương châm và cách thức vận hành hệ thống giáo dục đạt đến kết quả cao nhất. Thấy được vai trò to lớn của giáo dục với sự phát triển quốc gia: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, cũng như thấy được những bất cập của hệ thống giáo dục, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã đầu tư các nguồn lực và tiến hành ba cuộc cải cách giáo dục. Cuộc cải cách lần đầu vào năm 1950 khi mà chính quyền còn đang ở Việt Bắc, tiếp đó là cải cách giáo dục năm 1956 khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cuộc cải cách lần ba vào năm 1979 khi đất nước thống nhất, chấm dứt hai nền giáo dục (miền Bắc, miền Nam) của một quốc gia. Từ năm 1986 chúng ta tiến hành đổi mới giáo dục, tuy thành công về giáo dục của chúng ta là không thể phủ nhận nhưng đạt được mục đích, cũng như gặt hái thành quả so với công sức bỏ ra khiến chúng ta thấy chưa hài lòng. Giải quyết vấn đề giáo dục Việt Nam theo TS. Dương Kỳ Đức Hội Ngôn ngữ Việt Nam: “Không nên loay hoay ở những vấn đề kỹ thuật như chương trình, sách giáo khoa, thi cử, lương bổng mà ở vấn đề xác định triết lý giáo dục”. Nhìn sang giáo dục của một nước được coi là có nền giáo dục tốt như Mỹ, các nghiên cứu cho thấy họ có triết lý rõ ràng: nền giáo dục dựa trên bản chất, trường tồn, tiến bộ, cải tạo xã hội và hiện sinh. Bản chất, trường tồn là nội dung giáo dục gồm những kiến thức kinh điển và đạo đức có tính mẫu mực, đã chứng nghiệm thực tiễn, là những chân lý mang tính phổ quát mà không còn gây tranh cãi. Tiến bộ và cải tạo xã hội là nội dung giáo dục gắn chặt đến nhu cầu, lợi ích của người học, đến những vấn đề trực tiếp của đời sống cả mặt tiến bộ và thói hư, tật xấu để người học tin tưởng học tập có thể thay đổi được cái xấu, cái lạc hậu. Hiện sinh là nội dung giáo dục khuyến khích người học đề cao sở thích, phẩm tính cá nhân, tự lựa chọn xây dựng nhân cách riêng, để khẳng định mình trước cộng đồng. Về mục tiêu của giáo dục Mỹ, họ giáo dục để đạt tới: “ Mục tiêu đầu tiên của giáo dục cho một nền dân chủ là sự phát triển đầy đủ, toàn diện, liên tục, của một con người …giải phóng và hoàn thiện những sức mạnh nội tại của mỗi một công dân là mục đích trung tâm của nền dân chủ và việc thúc đẩy mỗi cá nhân tự thể hiện mình là sứ mệnh vinh quang lớn nhất của nó”. Một nhà khoa học vĩ đại, đồng thời cũng là nhà giáo dục danh tiếng Anbe Anhstanh(1879 – 1955) cho rằng mục tiêu của giáo dục là: “Giáo dục cho các em học sinh thành những con người có suy nghĩ và hành động độc lập, những con người đó phải lấy việc phục vụ cộng đồng là nhiệm vụ sống còn cao cả nhất của mình” . Một nhà giáo dục Thụy Sỹ Petxtalodi(1746 – 1827) thì coi giáo dục là làm phát triển mọi tiềm năng tự nhiên của con người, một sự phát triển toàn diện, giáo dục tận diệt gốc rễ nghèo khổ. Chúng ta quay trở về nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến, triết lý giáo dục đó dựa trên nền tảng nho học, coi chữ Nho là chữ thánh hiền, sách thánh hiền, coi trọng thầy cao hơn bố chỉ đứng sau vua: quân, sư, phụ, trò đối với thầy phải: “sống tết, chết giỗ”. Mục tiêu của việc học chữ thánh hiền để thành người quân tử, học để đi thi đỗ đạt ra làm quan, một người làm quan cả họ được nhờ. Nền giáo dục đó tạo ra một đội ngũ nho sỹ, quan lại, có những con người danh giá mẫu mực như Nguyễn Trãi, chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiểm… Mục tiêu của nền giáo dục đó là phục vụ cho chế độ phong kiến mà điển hình là cho dòng họ đang trị vì triều chính với mệnh đề: “Trung quân ái quốc”. Nền giáo dục đó sụp đổ khi không chống đỡ nổi văn minh châu Âu do sự xâm chiếm của người Pháp mang đến. Sau năm 1945 Đảng và nhà nước thực hiện nền giáo dục nhân dân và sau đó là nền giáo dục XHCN dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, hiện nay đường lối phát triển giáo dục theo quan điểm chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, sứ mệnh của giáo dục – đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, phương châm phát triển giáo dục là chuẩn hóa, xã hội hóa, đa dạng hóa và dân chủ hóa. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người mới Việt Nam phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ, nghề nghiệp. Như thế, mục tiêu của nền nho học là đào tạo con người quân tử, nho sĩ, đội ngũ quan lại trung quân ái quốc, còn nền giáo dục mới XHCN là đào tạo con người mới phát triển toàn diện nhưng mục tiêu này không dễ dàng đạt được. Số liệu điều tra cho thấy chỉ có khoảng 5% số thanh niên, sinh viên trong số người tham gia điều tra đạt được mẫu người toàn diện: “Theo phương pháp NEO - p - IR chúng tôi đã điều tra(đo) nhân cách của thanh niên, sinh viên ta, kết quả cho thấy chỉ có 5% số người tham gia điều tra là thuộc nhóm “không vấn đề” tạm gọi là toàn diện” . Điều đó cho ta thấy nếu triết lý giáo dục dựa trên quan điểm, quyết tâm chính trị để đạt mẫu người nhất định thì con người dễ trở thành một loại sản phẩm giống nhau. 

        
         Để rộng bàn về triết lý giáo dục Việt Nam, tiếp thu kinh nghiệm xưa và nay chúng tôi đề xuất một nền giáo dục dựa trên định thức: Dưỡng nhân, thực chân, mực thước, khai phóng. Dưỡng nhân là dưỡng đức, dưỡng chí, dưỡng thần. Dưỡng đức là giáo dục nhằm vào việc nuôi dưỡng, chăm sóc, sinh trưởng đạo đức con người, mà chủ yếu là tình yêu thương cha mẹ, gia đình và sự bao dung cống hiến với cộng đồng. Dưỡng chí là khơi dậy, nuôi dưỡng ý chí, chí hướng người học. Chí con người quan trọng như kim chỉ nam của la bàn, mất chí hướng con người trở nên yếu đuối, giống thuyền không có bánh lái, mũi lái, chí chỉ huy toàn bộ, huy động toàn bộ, sức mạnh năng lượng của bộ não cho một mục tiêu được lựa chọn. Nếu không sinh dưỡng chí cho người học, nền giáo dục khó đào tạo được con người có phẩm giá vì “có chí thì nên”, “ Đào núi và lấp biển, quyết chí cũng làm nên”chí tạo ra sức mạnh nội lực cá nhân, công đồng, dân tộc. Dưỡng thần là nuôi dưỡng tinh thần, tâm hồn con người luôn vươn tới cái đẹp, cái thiện, niềm vui, tâm hồn con người như mầm cây xanh, giáo dục là chăm sóc mầm cây đó không bị nhiễm bệnh, tưới cho nó dòng nước mát, ngọn gió lành để mầm cây đó vươn xanh, tâm hồn con người thanh thản, trong sáng, phong phú, không độc ác, tội lỗi, khô cằn, và vì thế nâng cao chất lượng cuộc sống. Thực chân tức nội dung giáo dục là những vấn đề chân lý đã được thực tiễn kiểm nghiệm, những chân lý đó là lẽ phải, là bản chất, nhưng gắn với thực tiễn, thực là chú trọng thực nghiệm, thực học, đề cao khoa học công nghệ, thiết thân với người học (học để nâng cao năng xuất, chất lượng cuộc sống). Mực thước là phân biệt giáo dục với các lĩnh vực khác, phân biệt môi trường giáo dục với sự phức tạp, sô bồ của môi trường bên ngoài. Xã hội và thế giới muôn ngàn vạn vẻ, hình thù nhiều dạng nhưng giáo dục giúp người ta chọn được những điều ngay ngắn, chừng mực, điều độ, quy củ và nhờ vậy mà họ kiểm soát được sự vật và cuộc sống, họ biết tôn trọng quy tắc chung của cộng đồng, của môi trường để hướng tới sự văn minh, bước qua đời sống dã man bầy đàn. Khai phóng là nội dung giáo dục không bó buộc mà luôn có không gian tự do, rộng mở để con người tiến lên tìm được chân lý mới, không ràng buộc trong ý thức hệ ngu trung như thời phong kiến, mỗi con người nhờ giáo dục mà tự giải phóng tiềm năng của chính mình và tự hoàn thiện cho mình giá trị riêng, hữu ích với xã hội chứ không phải nằm trong loạt sản phẩm được đúc từ khuôn chung theo ý chí của giai cấp thống trị. Khai phóng là không gian tự do về học thuật và tư tưởng, sự tranh cãi tư do về học thuật mới vén bỏ bức màn mê muộn, làm ló dạng chân lý. Vì lý đó các nước châu Âu không tuyên truyền tôn giáo trong nhà trường mà coi tôn giáo là việc của cá nhân. Nếu chúng ta đặt nền tảng giáo dục trên những định thức, nguyên lý đó, sự nghiệp giáo dục của chúng ta hẳn sẽ có những thành quả và không thua kém các nước Đông Nam Á cũng như các nước trên thế giới, chúng ta cũng không phải tự ti vì chúng ta có mấy ngàn năm văn hiến mà giáo dục không bằng các nước lân bang trong khu vực./.



           CHÚ THÍCH:

  1. TS. Đại học Nội vụ Hà Nội
  2. Bộ Giáo dục và đào tạo. Những thành tựu giáo dục và đào tạo Việt Nam . Báo Giáo dục và thời đại. ngày 27/1/2014. 
  3. Tin Mới. Bốn “trong bênh” của nền giáo dục Việt Nam. Đăng trên Tin tức online, ngày 9/10/2015. (Tiến Dũng. Ba mươi năm chất lượng giáo dục bị bỏ ngỏ. VnEpress. Net ngày 30/10/2009.)
  4. Phạm Minh Hạc. Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam. Nxb giáo dục Việt Nam. Hà nội, 2011, tr.17.
  5. Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập IV, tr. 8
  6. James L. Bess (chủ biên) Nền tảng giáo dục đại học Mỹ. Nxb Simon và Schuster Cusom. Tr.42.
  7. Phạm Minh Hạc. Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam. Nxb giáo dục Việt Nam. Hà nội, 2011, tr.160.
  8. Phạm Minh Hạc. Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam. Nxb giáo dục Việt Nam. Hà nội, 2011, tr.256.

          TÀI LIỆU THAM KHẢO 
  1. Bộ Giáo dục và đào tạo. Những thành tựu giáo dục và đào tạo Việt Nam . Báo Giáo dục và thời đại. ngày 27/1/2014. 
  2. Tiến Dũng. Ba mươi năm chất lượng giáo dục bị bỏ ngỏ. VnEpress. Net ngày 30/10/2009.
  3. Phạm Minh Hạc. Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam. Nxb giáo dục Việt Nam. Hà nội, 2011, tr.256.
  4. James L. Bess (chủ biên). Nền tảng giáo dục đại học Mỹ. Nxb Simon và Schuster Cusom.
  5. Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập IV,
  6. Tin Mới. Bốn “trong bênh” của nền giáo dục Việt Nam. Đăng trên Tin tức online, ngày 9/10/2015.















TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM Reviewed by Cong Nguyen on tháng 11 08, 2017 Rating: 5

Không có nhận xét nào:

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.