Khoatochucxaydungchinhquyen

Tin mới nhận

hoat-dong-khoa-hoc

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


TS Nguyễn Tất Đạt

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ cao mới đáp ứng yêu bảo đảm cho đất nước đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), gắn với nâng cao toàn diện chất lượng và hiệu quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong tình hình mới. 
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Trong chiến lược phát triển, Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm, chăm lo đến công tác giáo dục và đào tạo (GD-ĐT), phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI trình Đại hội XII của Đảng xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. (1)
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương, Lưu hành nội bộ). Tháng 4-2015, tr.36. 
Đảng ta chỉ rõ phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo, trước hết là yêu cầu “Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Đồng thời, đòi hỏi “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực”; (2)
 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương, Lưu hành nội bộ). Tháng 4-2015, tr.36. 
đồng thời, Đảng cũng yêu cầu tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý GD-ĐT, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD-ĐT. Tập trung nâng cao chất lượng GD-ĐT, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Đây được coi là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Phát triển GD-ĐT có sứ mệnh nâng sao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển GD-ĐT cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho GD-ĐT là đầu tư phát triển. 

Trong quá trình xây dựng và BVTQ các hoạt động phát triển KT-XH không chỉ là mở rộng quy mô nền kinh tế, mà quan trọng hơn là phải nâng cao chất lượng và hiệu quả, nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi nước ta đã là thành thành viên đầy đủ của WTO và các tổ chức kinh tế khu vực. Yếu tố trung tâm quyết định chất lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước chính là khoa học, công nghệ và quản lý. Muốn nắm vững, làm chủ, phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao trình độ quản lý phải dựa vào tài năng, phải có nhiều nhân tài trong mọi lĩnh vực. Cơ sở để có nhiều nhân tài là phải phát triển mạnh và đúng hướng nền GD-ĐT để có nguồn nhân lực chất lượng cao. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề”. (3)
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQH, H. 2011, tr.216.
Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với những người bị thu hồi đất; nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển GD-ĐT ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, nếu chúng không có nguồn nhân lực có trình độ cao, có tài năng quản lý, có thái độ và trách nhiệm đúng với đất nước, với chế độ, có dũng khí muốn đổi mới đất nước thì ngay cả những kỹ thuật hoàn thiện nhất cũng ít phát huy tác dụng. Chính vì thế, để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững theo đúng định hướng XHCN, cần phải coi trọng công tác khoa giáo, nhất là đối với hai lĩnh vực trọng yếu là GD-ĐT và khoa học và công nghệ, như các văn kiện của Đại hội X, XI của Đảng đã chỉ rõ. Đặc biệt, việc tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là GD-ĐT, khoa học và công nghệ đã được xác định là một trong ba khâu đột phá then chốt để làm chuyển động toàn bộ tình hình KT-XH và nhằm thực hiện có hiệu quả Chiến lược BVTQ trong tình hình mới.

Để đánh giá việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta thời gian qua, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Quy mô, mạng lưới cơ sở GD-ĐT tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước. Quan tâm đầu tư cho giáo dục và đào tạo (bằng 20% tổng chi phí ngân sách nhà nước). Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ, cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hoá. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về só lượng và chất lượng. Xã hội hoá giáo dục được đẩy mạng. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả GD-ĐT còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ về thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động”. (4)
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương, Lưu hành nội bộ). Tháng 4- 2015, tr.35. 
Nguyên nhân của tình trạng này là do thời gian qua, chúng ta đã buông lỏng quản lý cơ cấu đào tạo, để phát triển tự phát theo nhu cầu của người dân, hướng vào đại học, chưa gắn với sử dụng; chưa chú ý đúng mức công tác đào tạo nghề và bồi dưỡng nhân tài. 

Công tác bồi dưỡng và sử dụng nhân tài chưa được quan tâm đúng mức, thiếu cơ chế, chính sách để trọng dụng cán bộ khoa học và nhà giáo có trình độ cao và nhiều chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ chưa được ban hành. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao còn ít, song chưa được sử dụng tốt, đang bị lão hoá, ít có điều kiện cập nhật kiến thức mới. Sự hẫng hụt về cán bộ là nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản. Đây là những bất cập nổi cộm, bức xúc nhiều năm nay và cần sớm được giải quyết để đưa nước ta trở thành nước phát triển. 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước nền GD-ĐT của nước ta bước vào thời kỳ hội nhâp quốc tế, toàn cầu hoá kinh tế, bởi vậy công tác GD-ĐT cán bộ nguồn nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước cũng phải được đổi mới. Ngoài việc cử người sang các nước đào tạo như: Pháp, Mỹ, Nhật, Anh,... và một số nước bạn truyền thống, đối tác chiến lược như Nga, Trung Quốc, hợp tác toàn diện lâu dài, chúng ta phải tiếp tục đào tạo cán bộ cả trong nước và gửi sang các nước khác trên thế giới để đào tạo, nhất là những loại cán bộ khoa học mũi nhọn, chuyên ngành như tin học, viễn thông, y học, năng lượng, hạt nhân,…Cái yếu chí tử của ta trong GD-ĐT là: chưa có đội ngũ cán bộ chuyên gia đầu ngành. Học ngoại ngữ các thứ tiếng Nga, Anh, Pháp,… đều chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đây là vấn đề đặt ra phải khắc phục ngay. Chúng ta muốn cập nhật và khai thác được các tài liệu quân sự nước ngoài trước hết phải nắm được và giỏi ngoại ngữ.

Để khắc phục những tồn tại nêu trên, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của chúng ta phải hướng vào việc xây dựng đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đồng thời với việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, tổ chức tốt quản lý vĩ mô nguồn nhân lực trình độ cao là vấn đề cấp bách hiện nay, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng chính sách cuốn hút, kêu gọi trí thức về nông thôn; khuyến khích kỹ sư nông nghiệp, lâm nghiệp về công tác tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng còn gặp nhiều khoa khăn. 

Để tiếp tục đổi mới, phát triển toàn diện GD-ĐT, Nghi quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ở mục V- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân lực. Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, theo chúng tôi cần tập trung làm tốt một số nội dung giải pháp cơ bản sau:

Trước hết, cần quán triệt sâu sắc những chỉ thị, nghị quyết, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về GD-ĐT, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ thời kỳ mới. Đảng ta khẳng định: GD - ĐT cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển. Phát triển GD-ĐT nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; bồi dưỡng, đào tạo những con người vừa có bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn Việt Nam, gắn bó với CNXH, với quá trình phát triển của đất nước, vừa có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp ngang tầm thời đại. Đổi mới, phát triển GD-ĐT phải phục vụ tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Như vậy, hiện nay và trong giai đoạn tới, đào tạo nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và BVTQ của nước ta. Điều đó đòi hỏi ngành GD-ĐT phải tiếp tục đổi mới cơ bản và phát triển toàn diện; cùng với việc cung cấp kiến thức văn hoá, khoa học-công nghệ, phải góp phần bồi dưỡng các giá trị văn hoá cho học sinh, sinh viên, nhất là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lối sống, năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức, cốt cách con người Việt Nam. Những năm qua, bên cạnh những nỗ lực, cố gắng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp trồng người của nước nhà, ngành GD-ĐT cũng bộc lộ nhiều bất cập, khiếm khuyết, như chất lượng GD-ĐT còn thấp; quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực trong GD-ĐT còn yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng; năng lực thực hành còn yếu;...; công tác quản lý GD-ĐT chậm đổi mới và còn nhiều bất cập; những hiện tượng tiêu cực, như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả học tập, tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan, kéo dài, chậm được khắc phục. Vì thế, kiên quyết loại trừ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh hoá nền giáo dục, xây dựng nền giáo dục nước nhà phát triển bền vững là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của cả nước và của ngành GD-ĐT. Theo đó, Ngành GD-ĐT phải nghiêm túc thực hiện tốt Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục"; nhằm tạo sự chuyển biến tích cực, sâu rộng về nhận thức, tư tưởng và hành động của đội ngũ cán bộ, công chức, thầy cô giáo và học sinh, sinh viên, thiết thực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng ngành GD-ĐT vững mạnh, xây dựng nền giáo dục Việt Nam tiên tiến. 

Hai là, đối với hệ thống giáo dục bậc đại học và sau đại học, tập trung hoàn thiện chương trình khung theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và đào tạo liên thông. Kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, gắn đào tạo với thực tiễn sản xuất, kinh doanh, với yêu cầu nhiệm vụ BVTQ. Đẩy mạnh việc triển khai 9 chương trình trọng điểm: phát triển các chương trình đào tạo đại học đạt trình độ tiên tiến; hình thành các trường đại học có trình độ quốc tế; chương trình đào tạo 20.000 tiến sỹ và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các trường đại học; hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học trên toàn quốc; tiếp tục chương trình 10 năm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo và sử dụng tiếng Anh ở Việt Nam; đổi mới phương thức triển khai hoạt động khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng hợp tác quốc tế; đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục đại học...

Tăng cường giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên, trong đó chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo, năng lực tự học tập, tự nghiên cứu. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, cộng đồng trong việc GD-ĐT. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; phong trào xây dựng đời sống văn hoá trong các trường học, tăng cường giáo dục pháp luật, thực hiện các biện pháp phòng chống các tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự, an toàn trong nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục quốc phòng, an ninh, nhất là ở bậc đại học và sau đại học, để đảm bảo phải đạt 4 chuẩn: chuẩn về chương trình, tài liệu, giáo trình; chuẩn về đội ngũ giáo viên; chuẩn về thiết bị, học cụ; tiến tới chuẩn về chất lượng đào tạo. Phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Ngành, nhất là chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh cho cán bộ chủ trì, quản lý các cấp, giáo viên; các kế hoạch, phương án động viên Ngành cho nhiệm vụ quốc phòng, quân sự khi đất nước có chiến tranh. 

Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước; đồng thời huy động tối đa sự đóng góp vật chất và trí tuệ của toàn dân cho sự nghiệp GD-ĐT, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. 

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đây là khâu then chốt quyết định đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Yêu cầu trước mắt là tiếp tục nghiên cứu, triển khai thực hiện Chỉ thị 40/CT-TW của Ban Bí thư và Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý”, nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, bảo đảm chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; đặc biệt, chú trọng nâng cao phẩm chất, lối sống, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, trình độ sư phạm, ý thức, tinh thần trách nhiệm. Tham mưu, đề xuất cho Chính phủ, cho Bộ GD-ĐT các sáng kiến trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tăng cường kỷ cương, nền nếp trong các nhà trường sư phạm và cơ quan quản lý giáo dục; xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng GD-ĐT sát với từng loại hình, từng công việc và lĩnh vực, Kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực trong ngành GD-ĐT. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhất là đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và phát triển Đảng trong trường học.

Việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao chỉ thực sự có hiệu quả nếu chúng ta có chính sách quản lý nguồn nhân lực đúng đắn. Tư tưởng chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực là: lấy phát triển bền vững, kể cả phát triển nguồn nhân lực làm trung tâm; trên cơ sở kết hợp hài hòa ba lợi ích: cá nhân, tập thể, xã hội, phải coi lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao động; bảo đảm môi trường dân chủ thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng thuận; có chính sách phát huy tiềm năng của người lao động, bảo đảm hiệu quả công việc; phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trường lao động. Đây là một vấn đề rất phức tạp, trong đó mấu chốt là phải xây dựng được các chính sách quản lý phát triển GD-ĐT đúng đắn; chính sách sử dụng nguồn nhân lực ở các cấp, đặc biệt là ở các Bộ, ngành, các địa phương; bao gồm tuyển dụng, chính sách lao động, phân công lao động, phân bổ nguồn nhân lực, chính sách cán bộ, tiền lương, khen thưởng,.... Vấn đề tạo ra một hệ thống chính sách cụ thể đáp ứng lợi ích của các nhà khoa học, các trí thức trẻ, chính là động lực để kích thích tính tích cực lao động, tính tích cực xã hội của người lao động làm cho họ năng động, thiện chí, cầu tiến bộ, từ đó đi đến sáng tạo. Đó chính là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong tổ chức quản lý vĩ mô, cũng như vi mô nguồn lực con người, lực lượng lao động. Nếu chúng ta làm được như vậy, chính là đã chú ý cả lợi ích vật chất, cả nhu cầu tinh thần của con người.

Chú trọng phát huy, bồi dưỡng nguồn lực có trình độ cao là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược trồng người, là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp GD-ĐT nước ta trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm tạo ra những điều kiện cơ bản để thực hiện thành công tiến trình CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. 

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Reviewed by Cong Nguyen on tháng 11 12, 2017 Rating: 5

Không có nhận xét nào:

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.